Có thể tôi lại bị đánh thức bởi những âm thanh của tiếng tiêu, song sau khi tỉnh dậy thì không phải tiếng nhạc làm bận trí tôi. Tôi nằm quay lưng về phía cửa sổ hướng đông nơi mặt trăng sắp mọc và bởi vậy tôi chờ đợi được nom thấy ánh hồi quang của trăng trên bức tường đối diện. Nhưng tôi đã nhìn thấy một sự khác hẳn. Trên tường có những vệt sáng, nhưng đó không phải những hồi quang do ánh trăng phản chiếu. Tôi kinh sợ khi hiểu rằng đó là ánh sáng đỏ tươi lọt qua khuôn cửa sổ gôtích. Nó tràn ngập cả căn phòng bằng một ánh hào quang chói chưa từng thấy. Hành vi lúc đó của tôi thực đáng sợ, và điều này chẳng có gì đáng ngạc nhiên vì chỉ có nhân vật trong sách mới xử sự một cách có tính toán tỉnh táo trong tình huống như thế. Thay vì nhìn xuống vùng đầm lầy để hiểu xem nguồn ánh sáng mới ấy từ đâu đến thì tôi thậm chí không quay lại phía cửa sổ mà liền vội vã mặc quần áo với niềm hy vọng mơ hồ nhanh chóng trốn chạy khỏi nơi đây. Tôi nhớ là đã mang theo khẩu súng lục và cái mũ, nhưng chúng chẳng hề hữu dụng cho tôi. Tôi đã đánh mất cả hai sau khi chẳng bắn được phát nào và cũng chẳng đội đến mũ. Dẫu sao trí tò mò vẫn mạnh hơn sự kinh sợ, cho nên tôi lén bước tới cửa sổ để nhìn vào vầng hào quang đỏ sậm khó hiểu kia, tôi vươn người ra ngoài và đúng phút ấy tiếng tiêu cất lên đến váng tai, khắp tòa lâu đài và ngôi làng tràn ngập những thanh âm ấy.
Dòng ánh sáng rực rỡ màu đỏ sậm báo điều gở ấy xoáy thành tia trên mặt đầm lầy, nó phát ra từ đống phế tích hoàn toàn bí ẩn trên hòn đảo. Song khu hoang phế ấy đã thay đổi một cách lạ lùng. Tôi thật khó lòng mô tả được điều gì xảy ra, có thề tôi hóa điên, song tôi cảm thấy ngôi đền lại đang tọa lạc nơi đó với toàn bộ vẻ đường bệ oai nghiêm của nó mà chưa hề bị một thời gian làm phôi pha với những cây cột bao quanh. Những ánh hồi quang của ngọn lửa đang cháy trên mặt đá cẩm thạch của mũ cột vươn lên cao. Tiếng sáo ngân lên, tiếng trống vang vọng và trong khi tôi như một kẻ bị mê hoặc nhìn ngắm cảnh tượng ấy thì trên những bức tường cẩm thạch được chiếu sáng rõ bắt đầu xuất hiện hình dáng các vũ công. Tất cả những cảnh ấy nom thật phi thường khó tin là thật, ấn tượng tác động thật vô cùng sửng sốt. Tôi đứng lặng người tại chỗ, không thể rời mắt khỏi bức tranh kỳ dị, đồng thời ở bên trái tôi vang lên rất to tiếng tiêu dồn dập. Trong cơn phấn khích khó hiểu và choáng ngợp những dự cảm nặng nề, tôi liền băng ngang phòng đến chỗ cửa sổ phía bắc mà từ đó ngó thấy ngôi làng và cánh rừng thưa. Chính đó là điều mà tôi đã thấy trước đây và lý trí của tôi đã chối từ chấp nhận và hiểu thấu, nhưng bây giờ thì tôi sửng sốt vô chừng: dọc theo cánh rừng thưa đẫm ánh sáng màu đỏ máu đang chầm chậm chuyển động một đoàn diễu hành mà có lẽ chỉ có thể hiện trong cơn ác mộng mà thôi.
Lúc thì trượt trên mặt đất, lúc thì trôi trong không khí, những bóng ma đầm lầy chậm rãi đi theo hướng dẫn tới vùng hồ đầm lầy êm đềm nước lặng và đi tiếp tới khu phế tích, những bóng ma ấy choàng những bộ đồ mầu trắng, chúng cứ đi và tạo ra những hình thù phức tạp, dường như đang biểu diễn một điệu vũ nghi lễ cổ xưa. Những cánh tay không chút thịt da của chúng lắc lư nhẹ theo nhịp giai đệu the thé xé màng tai của những cây sáo vô hình, những cánh tay ấy mời chào, thu hút theo chúng cả những người công nhân làm thuê mà giờ đây đã xếp thành hàng lần lượt đi sau một cánh mù quáng và tuân phục như những chú chó ngoan, dường như họ phải phục tùng một sức mạnh ma quỷ nào đó. Khi các nữ thần sông suối đi đến đầm lầy thì những nạn nhân mới đi ra khỏi lâu đài, họ lảo đảo với bộ điệu yếu đuối, xiêu vẹo, Họ xuất hiện từ chiếc cửa ra vào nằm ngay dưới cửa sổ phòng tôi, họ đi qua khu sân như đang trong cơn mơ ngủ, sau đó theo con đường làng hẹp họ tiếp nối hàng công nhân đang đi lảo đảo ở quãng cánh rừng thưa.
Mặc dù có một khoảng cách giữa tôi với họ nhưng tôi hiểu ngay rằng đó là những gia nhân đến đây từ miền bắc, thậm chí ở một trong số những hình người quái đản và thê thảm nhất tôi đã nhận ra chị đầu bếp mà những cử động vụng về bình thường của chị ta lúc này với tôi thật bi thảm. Những cây sáo vẫn phát ra những thanh âm khó mường tượng như trước, và từ phía hòn đảo lại vang lên tiếng thôi thúc giục giã của những chiếc trống, và chính lúc này các nữ thần sông suối chầm chậm và duyên dáng bước xuống làn nước của khu đầm lầy cổ xưa. Còn những người đi theo sau các nữ thần ấy không hề chậm bước cũng bắt đầu xuống nước và chẳng bao lâu mất hút dưới làn nước vô tình. Trong ánh sáng hồng trên mặt đầm lầy thật khó nhận ra những vệt bong bóng khí lan trên nước. Người cuối cùng mà vực thẳm kia nuốt chửng là chị bếp béo, con người đã gợi nên nơi tôi sự thương cảm. Khi chị ta khuất hẳn dưới làn nước thì những cây sáo cùng trống im hẳn, cái ánh sáng do đống phế tích phát ra làm chói mắt cũng tắt; ngôi làng lại lặng đi trong ánh sáng thanh bình của vầng trăng vừa mọc.
Tôi hoàn toàn bối rối. Liệu tôi có mất trí hay không đây? Tôi đang ngủ chăng? Liệu có phải những điều đó đã xảy ra trên thực tế hay không? Tôi nghĩ chính sự sững sờ mà tôi bất ngờ chìm đắm vào đã cứu tôi khỏi cái số phận bi thảm chung cho đám người ấy. Có lẽ tôi đã cầu nguyện thần Arteuris, thần Latona, thần Persephone và thần Pluto. Tóm lại tôi đã cầu xin tất cả các vị thần mà tôi nhớ được trong văn học cổ điển, nỗi kinh hoàng vừa nếm trải đã biến tôi thành một kẻ mê tín. Tôi hiểu rằng tôi đã trở thành người chứng kiến cái chết của cả làng, không còn nghi ngờ gì nữa: trong tòa lâu đài chỉ còn lại có tôi và Dennis Barry, chính sự khinh suất rồ dại của chàng đã dẫn đến thảm họa. Khi nghĩ về chàng thì trong tôi lại choáng ngợp nỗi khiếp đảm đến nỗi đôi chân khuỵu ngã xuống và tôi ngã lăn trên sàn nhà, mặc dầu tôi không hề bị ngất. Bất thình lình tôi cảm thấy một cơn gió lạnh buốt từ phía đông nơi mặt trăng vừa mọc và tôi cũng nghe thấy những tiếng kêu tuyệt vọng ở tầng dưới của tòa lâu đài. Chẳng bao lâu sau tiếng kêu chuyển thành tiếng la hét thất thanh ghê gớm đến mức bây giờ tôi cũng còn thấy kinh hoàng khi nghĩ đến tiếng la hét ấy. Tôi có thể nói ngay rằng đó chính là tiếng gào thét của ông bạn tôi.
Có lẽ, làn gió lạnh giá và những tiếng kêu khủng khiếp đã buộc tôi phải đứng dậy bởi vì, như tôi còn nhớ, tôi chạy hồi lâu dọc các căn phòng tăm tối và các dãy hành lang tối om cho đến khi lọt ra bên ngoài. Người ta tìm thấy tôi lúc rạng sáng cách Ballylow không xa. Tôi đã đi lảo đảo như một kẻ không nhà không cửa, miệng lẩm bẩm điều gì trong trạng thái hoàn toàn mê man. Sự cố cuối cùng tôi thấy ở Kilderry đã đẩy tôi tới trạng thái khốn đốn cùng cực đó. Cái cảnh ấy thật quái đản, ghê sợ đến nỗi tôi sẽ không bao giờ quên được cho đến ngày nhắm mắt xuôi tay. Cảnh đó luôn luôn hiện lên trước mắt tôi nếu tôi bất thần đứng gần một đầm lầy vào đêm trăng nào đó.
Vậy là sau khi rời bỏ tòa lâu đài khủng khiếp, đang phóng đi dọc bờ đầm lầy bỗng nhiên tôi nghe thấy những âm thanh gì mới lạ, chẳng có gì đặc biệt, nhưng ở đây, tại Kilderry, thì cho đến nay tôi chưa bao giờ nghe thấy. Làn nước tù hãm mà trong đó chẳng có chút sinh khí nào giờ thật khoái hoạt, sinh động. Mặt đầm lầy nhung nhúc biết bao những con ếch kềnh kêu ồm ộp liên tục. Ánh trăng lấp lóa hai bên lườn phồng mọng màu xanh của chúng, nhưng ánh sáng còn tia ra từ một nguồn sáng, và có lẽ những con ếch kềnh ấy đang chú ý dõi nhìn về phía tia sáng ấy. Tôi theo dõi một con ếch đặc biệt béo mỡ và xấu xí và nhìn thấy chính cái điều đã khiến tôi hoàn toàn mê muội.
Một tia sáng nhấp nháy yếu ớt không phản chiếu trong mặt nước đầm lầy trải dài từ công trình bí ẩn trên hòn đảo nhỏ tới vầng trăng khuyết. Còn tôi thót tim khi nhìn thấy trên con đường mòn nhợt nhạt chết chóc một hình người quằn quại, một cái bóng mờ ảo đang cố sức cưỡng lại những con quỷ vô hình đang kéo cái bóng đó theo sau. Có thể là tôi điên, nhưng cái bóng dáng đó, một bức biếm họa quái đản man dại, đã khiến tôi nhớ một cách lạ lùng đến con người đã từng là Dennis Barry.